Căn cứ ly hôn theo luật hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2014 = Divorce basis in Marital and family law of Viet Nam in 2014
Ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết
định có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã
quy định các căn cứ để Tòa án thụ lý giải quyết yêu cầu ly hôn bao gồm hai căn
cứ tại Điều 55 và Điều 56:
2.1.
Căn cứ ly hôn khi thuận tình ly hôn
Thuận tình ly hôn là trường hợp cả vợ hoặc chồng cùng yêu
cầu chấm dứt hôn nhân được thể hiện bằng đơn thuận tình ly hôn của vợ chồng.
Theo Điều 55 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định:
“Trong trường hợp vợ chồng cùng yêu cầu ly hôn, nếu xét thấy hai bên thật sự tự
nguyện ly hôn và đã thỏa thuận về việc chia tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng,
chăm sóc, giáo dục con trên cơ sở bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con
thì Tòa án công nhận thuận tình ly hôn; nếu không thỏa thuận được hoặc có thỏa
thuận nhưng không bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Tòa án giải
quyết việc ly hôn”.
Theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình 2014 thì
trong trường hợp hai vợ chồng có yêu cầu thuận tình ly hôn, sự tự nguyện của
hai vợ chồng khi yêu cầu chấm dứt hôn nhân là một căn cứ quyết định việc chấm dứt
hôn nhân. Bảo đảm “thật sự tự nguyện ly hôn” là cả hai vợ chồng đều được tự do
bày tỏ ý chí của mình, không bị cưỡng ép, không bị lừa dối trong việc thuận
tình ly hôn. Việc thể hiện ý chí thật sự tự nguyện ly hôn của hai vợ chồng đều
phải xuất phát từ trách nhiệm đối với gia đình họ, phù hợp với yêu cầu của pháp
luật và chuẩn mực, đạo đức xã hội.
Cũng trong Điều 55, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014,
trong việc thuận tình ly hôn, ngoài ý chí thật sự tự nguyện xin thuận tình ly
hôn của vợ chồng, đòi hỏi hai vợ chồng còn phải có sự thoả thuận về việc chia
tài sản, việc trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con trên cơ sở đảm bảo
quyền lợi chính đáng của vợ và con, nếu vợ chồng không thoả thuận được hoặc tuy
có thoả thuận nhưng không bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của vợ và con thì
Toà án quyết định giải quyết việc ly hôn.
Trong trường hợp vợ chồng cùng yêu cầu xin ly hôn thì Toà
án vẫn phải tiến hành hoà giải, mục đích là để vợ chồng rút đơn yêu cầu ly hôn
và đoàn tụ với nhau. Việc cho ly hôn trong trường hợp thuận tình này đối với
Tòa án là không phải dễ, bởi vì khó có thể định lượng khi chỉ dựa trên yếu tố
thỏa thuận tự nguyện thật sự của hai vợ chồng nếu không xem xét đến các yếu tố
tình trạng mâu thuẫn vợ chồng đến đâu, mức độ ảnh hưởng đến cuộc sống hôn nhân
đến cấp độ nào và gắn với việc thỏa thuận của họ đến đâu về việc chăm sóc, nuôi
dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn. Thực tế, nguyên nhân phát sinh tranh chấp
trong cuộc sống vợ chồng dẫn đến ly hôn hay thuận tình ly hôn cũng là do tình cảm
của vợ chồng bị rạn nứt, một trong hai bên đã không làm tròn nghĩa vụ của mình
với gia đình hay vì tự ái cá nhân hoặc hiểu lầm trong quan hệ của vợ hoặc chồng
mình nên đã quyết định yêu cầu Tòa án giải quyết cho họ được ly hôn. Nhưng khi
có sự giải thích, phân tích đúng, sai trong quan hệ của họ của người làm công
tác hòa giải để khuyên họ nên bỏ qua những lầm lỗi, tha thứcho nhau để quay lại
chung sống với nhau thì họ đã hiểu ra và quay lại đoàn tụ chung sống với nhau
và Tòa án cũng không phải giải quyết về các vấn đề kéo theo như con và tài sản.
Nếu hoà giải thành tức là vợ chồng rút đơn thuận tình ly hôn thì Toà án lập
biên bản hoà giải thành, sau 15 ngày kể từ ngày Toà án lập biên bản hoà giải
thành mà các bên đương sự không thay đổi ý kiến thì Toà án ra quyết định đình
chỉ giải quyết vụ án (Điều 10, Điều 186, Điều 187 Bộ luật Tố tụng dân sự 2004).
Còn khi hoà giải không thành, các bên thực sự tự nguyện ly hôn nhưng không thoả
thuận được về việc chia tài sản hoặc việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo
dục con thì Toà án lập biên bản về việc hoà giải đoàn tụ không thành và về những
vấn đề hai bên không thoả thuận được hoặc có thoả thuận nhưng không bảo đảm quyền
lợi chính đáng của vợ và con, đồng thời mở phiên Toà xét xử theo thủ tục chung
(điểm d, khoản 2, Điều 179 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004).
2.2.
Căn cứ ly hôn khi ly hôn theo yêu cầu của một bên
Ly hôn theo yêu cầu của một bên là trường hợp chỉ có một
trong hai vợ chồng, hoặc cha, mẹ, người thân thích của một trong hai bên yêu cầu
được chấm dứt quan hệ hôn nhân. Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy
định về ly hôn theo yêu cầu của một bên như sau:
“1. Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa
án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng
có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ,
chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể
kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.
2. Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án
tuyên bố mất tích yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn.
3. Trong trường hợp có yêu cầu ly hôn theo quy định tại
khoản 2 Điều 51 của Luật này thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về
việc chồng, vợ có hành vi bạo lực gia đình làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính
mạng, sức khỏe, tinh thần của người kia.”
Theo đó, khi ly hôn theo yêu cầu của một bên thì Tòa án cần
dựa vào một trong ba căn cứ sau đây:
Thứ nhất, đối với trường hợp khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly
hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có
căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng
quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời
sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.
Trước tiên, khi có yêu cầu ly hôn của vợ, chồng, Toà án
phải tiến hành điều tra và hoà giải, nếu hoà giải không thành thì Toà án cần
xác định tình trạng của quan hệ hôn nhân, xem có căn cứ ly hôn không để giải
quyết. Việc giải quyết ly hôn cần phải chính xác. Nếu xét xử đúng, kết quả đó sẽ
phù hợp với nguyện vọng của các bên, bảo vệ quyền và lợi ích của các thành viên
trong gia đình. Ngược lại, nếu việc giải quyết không chính xác sẽ dẫn tới tan vỡ
hạnh phúc gia đình, phá huỷ một cuộc hôn nhân còn có thể cứu vãn được và gây ra
hậu quả không đáng có. Mặt khác, giải quyết ly hôn cũng đòi hỏi sự linh hoạt
trong việc vận dụng căn cứ ly hôn đối với mỗi trường hợp cụ thể.
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã bổ sung điểm mới
khi cho ly hôn khi có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền
và nghĩa vụ của vợ, chồng. Như vậy, luật hiện hành quy định rất rõ “bạo lực gia
đình” là căn cứ để giải quyết cho ly hôn. Bởi qua tổng kết thực tiễn giải quyết
các án kiện ly hôn của Toà án cho thấy số vụ ly hôn có hành vi ngược đãi, đánh
đập chiếm tỉ lệ cao nhất trong các nguyên nhân dẫn đến ly hôn ở nước ta trong
đó thì đa phần phụ nữ là nạn nhân của tình trạng này. Tình trạng bạo lực trong
gia đình ngày càng gia tăng và thể hiện tính chất nghiêm trọng của nó. Tình trạng
bạo lực trong gia đình xảy ra do nhiều lý do khác nhau. Có trường hợp do cuộc sống
vật chất quá khó khăn. Có trường hợp do ghen tuông, nghi ngờ một bên ngoại tình
nên đã đánh đập nhau. Tệ cờ bạc, nghiện ngập cũng là lý do dẫn đến tình trạng vợ
chồng đánh đập, ngược đãi nhau. Đa phần bạo lực trong gia đình dẫn đến tình trạng
vợ chồng ly hôn, có trường hợp dẫn đến án mạng. Bên cạnh đó, đối với những vi
phạm khác, những mâu thuẫn, xung đột, bất đồng trong đời sống vợ chồng... là lý
do để ly hôn thì luật cũng quy định rõ ràng phải có cơ sở nhận định chung rằng
tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân
không đạt được thì mới giải quyết cho ly hôn.
Qua đó, có thể thấy rằng việc đưa ra những nguyên nhân của
hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục
đích của hôn nhân không đạt được để cụ thể hóa căn cứ cho ly hôn “vợ, chồng có
hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng”
trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã tạo cơ sở pháp lý rõ ràng cho Tòa
án khi giải quyết việc ly hôn theo yêu cầu của một bên. Đây là một quy định rất
tiến bộ mang ý nghĩa quan trọng nhằm cụ thể hóa Hiến pháp năm 2013 về quyền con
người và bảo vệ quyền con người trong tiến trình hội nhập quốc tế. Điều này
cũng tạo sự thống nhất trong việc áp dụng pháp luật khi giải quyết việc ly hôn
trong cả nước.
Thứ hai, đối với trường hợp vợ hoặc chồng của người bị
Tòa án tuyên bố mất tích yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn.
Tuyên bố một người mất tích là một sự kiện pháp lý nhằm
xác định một người cụ thể “hoàn toàn không rõ tung tích, cũng không rõ còn sống
hay đã chết” (theo từ điển tiếng Việt). Theo quy định tại Điều 78 Bộ luật Dân sự
năm 2005: “Khi một người biệt tích 2 năm liền trở lên, mặc dù đã áp dụng đầy đủ
các biện pháp thông báo, tìm kiếm theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự
nhưng vẫn không có tin tức xác thực về việc người đó còn sống hay đã chết thì
theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, Tòa án có thể tuyên bố người
đó mất tích….” Khoản 2 Điều 55 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 cũng quy định
về căn cứ cho ly hôn có đề cập tới trường hợp yêu cầu ly hôn khi một trong hai
người mất tích như sau: “Trong trường hợp vợ hoặc chồng của người bị Tòa án
tuyên bố mất tích yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn.”.
Trường hợp đồng thời yêu cầu Tòa án tuyên bố mất tích và
yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn, cần lưu ý Tòa án chỉ giải quyết cho ly hôn có
bằng chứng chứng minh được chồng hoặc vợ đã biệt tích từ hai năm trở lên kể từ
ngày có tin tức cuối cùng về chồng (vợ), mặc dù đã áp dụng đầy đủ các biện pháp
thông báo, tìm kiếm theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự nhưng vẫn không
có tin tức xác thực về việc người đó còn sống hay đã chết. Việc tuyên bố cá
nhân mất tích có ý nghĩa hết sức quan trọng. Nó góp phần bảo vệ lợi ích của cá
nhân cũng như các chủ thể có liên quan. Việc xác định đúng điều kiện và hậu quả
pháp lí của các tuyên bố này là cơ sở đảm bảo quyền lợi cho các chủ thể, đồng
thời góp phần thực hiện có hiệu quả nhưng quy định của pháp luật trong tuyên bố
các cá nhân mất tích
Thứ ba, đối với trường hợp có yêu cầu ly hôn theo quy định
tại khoản 2 Điều 51 của Luật này thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ
về việc chồng, vợ có hành vi bạo lực gia đình làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến
tính mạng, sức khỏe, tinh thần của người kia
Theo đó, theo quy định trong Luật Hôn nhân và gia đình
thì có thể xin ly hôn thay cho người thân và luật cũng quy định cụ thể về lý do
xin ly hôn, trong đó bạo lực gia đình là một lý do, căn cứ để người chồng hoặc
người vợ có quyền yêu cầu tòa án cho ly hôn. Cụ thể tại Khoản 2, Điều 51 trong
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 có quy định như sau: 2. Cha, mẹ, người thân
thích khác có quyền yêu cầu tòa án giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị
bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của
mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm
ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ.
Như vậy, thay vì chỉ vợ, chồng hoặc cả hai người mới có
quyền yêu cầu tòa án giải quyết ly hôn như trước đây thì kể từ nay, căn cứ để
cha, mẹ, người thân thích khác cũng có quyền yêu cầu tòa án giải quyết ly hôn
khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận
thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình
do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe,
tinh thần của họ.
Bên cạnh đó, đối với trường hợp này các nhà làm luật yêu
cầu cha, mẹ, người thân thích khác của vợ hoặc chồng cần phải chứng minh được
việc người chồng hoặc vợ bị mất năng lực hành vi dân sự phải là nạn nhân của bạo
lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng,
sức khỏe, tinh thần của họ. Tuy nhiên, theo quan điểm của người viết thì quy định
này là không cần thiết bởi chỉ cần khi một bên vợ, chồng bị tâm thần hoặc mắc bệnh
khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình thì lúc này cuộc hôn
nhân đã không còn hạnh phúc, xét về góc độ tình cảm thì mục đích ban đầu của
hôn nhân không đạt được nên cần phải giải quyết ly hôn cho hai bên khi có yêu cầu
của người thân của họ, tránh sự ràng buộc, bế tắc, chứ không cần thiết phải có
hậu quả là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng
nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ như quy định của luật.
Nhìn chung, căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2014 đang là một chủ đề nhận được rất nhiều sự quan tâm từ
dư luận xã hội. Các căn cứ ly hôn này đã góp phần giải quyết tốt
nhiều án ly hôn, giải phóng cho nhiều cuộc hôn nhân thoát khỏi những
bế tắc. Để từ đó, ly hôn không chỉ đơn thuần là làm tan rã những mối
quan hệ gia đình mà ngược lại, nó củng cố những mối liên hệ đó trên
những cơ sở dân chủ, những cơ sở duy nhất có thể có và vững chắc
trong một xã hội văn minh.
Mời
các bạn quan tâm đến đề tài tìm hiểu luận văn cùng chủ đề “Căn cứ ly hôn theo
luật hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2014 = Divorce basis in Marital and
family law of Viet Nam in 2014” của tác giả Nguyễn Thị Thơm tại đường link http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/14636
Nhận xét
Đăng nhận xét